Chào mừng bạn đến với website: www.kimtin.com.vn     Kim Tín - Thương hiệu Chất lượng Quốc gia !    Kim Tín - Trung tâm Kiểm định Vàng Quốc gia, được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Chỉ định và Cấp phép !    Kim Tín - Trang sức Vàng Bạc Đá quý Quốc tế !    Kim Tín - Công nghệ Vượt trội - Sản phẩm Vượt trội !    Kim Tín - Giải thưởng Quốc tế "Thương hiệu, Sản phẩm, Công nghệ đỉnh cao tại Mỹ !    Kim Tín - Giải thưởng "Thương hiệu mạnh nhất ngành Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam" !    Kim Tín - Giải "Đặc biệt" và giải "Kim cương" Nữ hoàng Trang sức Việt Nam !    Kim Tín - Nhiều năm liên tiếp đạt Danh hiệu "Hàng Việt Nam Chất lượng cao" do người Tiêu dùng Bình chọn !
Tin tức
SẢN PHẨM BÁN CHẠY
VIDEO CLIP
CATALOGUE
THĂM DÒ Ý KIẾN
Bạn thích nhất nhóm sản phẩm nào?

Kim cương

Saphin

Ngọc trai

Rubi

Ngọc cẩm thạch

Topaz

Emeral

Citrine

Amethyst

Opal

Gamet

Aquamerine

Lượt truy cập
10.013.621
Đang online
151
ĐƯỜNG DÂY NÓNG
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
Hỗ trợ 1
Hỗ trợ 2
LIÊN KẾT WEBSITE

Tri thức vàng bạc

Cập nhật ngày 17/08/2024 03:04 GMT+7

Vì sao thế giới tích vàng?

Vàng có một lịch sử lâu đời là nỗi ám ảnh của con người. Ngay từ lần đầu tiên nhân loại để mắt đến vàng, sự khao khát đối với thứ kim quý này chưa bao giờ giảm đi mà ngược lại ngày càng tăng. Vàng hấp dẫn các nền văn minh trên toàn thế giới và đã tạo điều kiện cho việc áp dụng vàng trên toàn cầu như một phương tiện trao đổi.

Giá và sản lượng vàng đã tăng vọt trên toàn cầu và cùng với nó là nhu cầu đối với vàng cũng tăng theo.

Một quốc gia có dự trữ vàng vì một số lý do, nhưng lý do chính trong số này là do chính sách bảo hiểm chống lại sự sụp đổ kinh tế. Hệ thống tài chính toàn cầu hiện tại dựa trên tiền pháp định - loại tiền giấy không được đảm bảo giá trị bởi bất kỳ tài sản vật chất nào ngoài lời của nhà phát hành là chính phủ. Vàng là một kim loại quý hiếm và đã được gắn liền với sự giàu có, giá trị trong hàng ngàn năm. Cho đến ngày nay nó vẫn là một tài sản hữu ích và có giá trị. Tương tự như cách các nhà đầu tư tư nhân sử dụng vàng để bảo hiểm, các ngân hàng trung ương cũng vậy.
 


Trong báo cáo tháng 10/2019, Ngân hàng Hà Lan (DNB) viết: "Cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác đều chứa rủi ro. Khi có vấn đề xảy ra, giá của chúng có thể giảm. Tuy nhiên, vàng - dù khủng hoảng hay không - vẫn luôn giữ được giá trị. Các ngân hàng trung ương như DNB thường dự trữ rất nhiều vàng trong kho. Vàng là mỏ neo tin cậy cho hệ thống tài chính. Nếu toàn bộ hệ thống sụp đổ, kho vàng khi đó sẽ cung cấp một tài sản thế chấp để bắt đầu xây dựng lại. Vàng tạo niềm tin vào sức mạnh của bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương. Điều đó mang lại cảm giác an toàn".

Thế nên với các quốc gia, dự trữ vàng đặc biệt quan trọng. Khi lạm phát bắt đầu tăng, các nước sẽ mua một lượng lớn vàng như một biện pháp chống lại lạm phát. Trong trường hợp xấu nhất, dự trữ vàng cung cấp cho một quốc gia sự bảo hiểm nếu giá trị tiền pháp định của đất nước đó giảm. Nếu tiền pháp định của họ trở nên vô giá trị hoặc gần như vô giá trị, thì họ vẫn có vàng vật chất để trả nợ và phát hành tiền.

Trong khi nhà đầu tư tìm kiếm sự an toàn bằng cách đầu tư vào vàng, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng đua nhau tích trữ vàng.

Vàng đã là một thành phần thiết yếu trong dự trữ tài chính của các quốc gia trong nhiều thế kỷ và sức hấp dẫn của kim loại này không hề có dấu hiệu giảm đi với việc các ngân hàng trung ương sẽ lại mua vàng ròng trong năm nay. Trên thực tế, các ngân hàng trung ương hiện nắm giữ hơn 35.000 tấn vàng, tương đương với khoảng 1/5 tổng số vàng từng được khai thác.
 


Dự trữ vàng là một phần trong tổng tài sản của một quốc gia. Trong quá khứ, vàng được các nhà cầm quyền và chính phủ tích lũy chủ yếu để đáp ứng chi phí tiến hành chiến tranh và trong hầu hết các thời đại, chính sách của chính phủ thường nhấn mạnh đến việc mua và giữ "kho báu". Các ngân hàng tích lũy vàng dự trữ để đổi lấy lời hứa trả cho người gửi tiền bằng vàng.

Trong suốt thế kỷ 19, các ngân hàng đã thay thế chính phủ với tư cách là người nắm giữ vàng dự trữ chính. Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi có hoàn trả bằng vàng theo yêu cầu và phát hành tiền giấy có thể hoàn trả bằng vàng theo yêu cầu. Do đó, mỗi ngân hàng phải dự trữ một lượng tiền vàng để đáp ứng nhu cầu mua lại. Tuy nhiên, theo thời gian, phần ưu đãi trước của lượng vàng dự trữ chuyển sang các ngân hàng trung ương. Bởi vì tiền giấy của các ngân hàng thương mại đã được thay thế toàn bộ hoặc phần lớn bằng giấy bạc của ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại cần rất ít hoặc không cần vàng để mua lại giấy bạc. Các ngân hàng thương mại cũng phụ thuộc vào ngân hàng trung ương về lượng vàng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền.

Trong những năm 1930, nhiều chính phủ yêu cầu các ngân hàng trung ương của họ phải chuyển giao cho kho bạc quốc gia toàn bộ hoặc phần lớn lượng vàng nắm giữ của họ. Ví dụ, ở Mỹ, Đạo luật Dự trữ Vàng năm 1934 quy định rằng Bộ Tài chính nước này phải có quyền sở hữu đối với tất cả đồng tiền vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng do các ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang trung ương nắm giữ.

Nhưng không phải tất cả các chính phủ đều "quốc hữu hóa" vàng, điều đó dẫn đến tình trạng dự trữ vàng khác nhau giữa các quốc gia. Ở một số nước, dự trữ vàng tiền tệ do chính phủ quốc gia độc quyền nắm giữ; trong khi đó ở nhiều quốc gia khác, kho dự trữ vàng phần lớn được nắm giữ.

Nhiều nước, vì mục đích an ninh, chọn lưu trữ vàng dự trữ bên ngoài hệ thống ngân hàng của họ. Ví dụ ở Vương quốc Anh, Ngân hàng Trung ương Anh không chỉ lưu trữ vàng dự trữ của Anh mà còn dự trữ một số quốc gia khác. Tuy nhiên, bất kể người nắm giữ nào, việc sử dụng vàng dự trữ hầu như chỉ giới hạn trong việc giải quyết các giao dịch quốc tế.

Được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ 19 và 20, bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ trong đó đơn vị tài khoản kinh tế tiêu chuẩn dựa trên một lượng vàng cố định. Nhiều quốc gia đã xóa bỏ hệ thống này nhưng vẫn giữ lượng vàng dự trữ đáng kể như một tài sản trú ẩn an toàn trong thời kỳ kinh tế bất ổn để bảo toàn của cải.

MỐI TƯƠNG QUAN VÀNG VÀ TIỀN RA SAO?

Vàng có sức hấp dẫn lâu dài và tầm ảnh hưởng rộng lớn. Mặc dù không còn được sử dụng như một hình thức tiền tệ chính ở các quốc gia phát triển, kim loại màu vàng này vẫn có tác động mạnh mẽ đến giá trị của các loại tiền tệ đó. Hơn nữa, có một mối tương quan chặt chẽ giữa giá trị của vàng và sức mạnh của tiền tệ được giao dịch trên các sàn giao dịch nước ngoài.

Thứ nhất, vàng từng được sử dụng để sao lưu tiền tệ. Ngay từ thời Đế chế Byzantine, vàng đã được sử dụng để hỗ trợ cho tiền tệ quốc gia. Vàng cũng được sử dụng làm tiền tệ dự trữ thế giới trong suốt thế kỷ 20. Mỹ sử dụng chế độ bản vị vàng cho đến năm 1971 khi Tổng thống Nixon ngừng sử dụng chế độ này.

Sau khi chế độ bản vị vàng bị xóa bỏ, các quốc gia không dễ để in tiền pháp định. Các nước phải có một lượng vàng tương đương trong kho dự trữ để bảo đảm cho tiền giấy được lưu thông. Mặc dù bản vị vàng đã không còn tồn tại từ lâu ở các nước phát triển, một số nhà kinh tế học cho rằng chế độ này nên được áp dụng lại do sự biến động của đồng đôla Mỹ và các loại tiền tệ khác. Theo đó, vàng sẽ giúp giới hạn số lượng tiền mà các quốc gia được phép in.
 


Thứ hai, vàng được sử dụng để chống lại lạm phát. Các nhà đầu tư thường mua một lượng lớn vàng khi mức lạm phát tại đất nước của họ tăng cao. Nhu cầu về vàng tăng lên trong thời kỳ lạm phát do giá trị vốn có của nó và nguồn cung hạn chế. So với các hình thức tiền tệ khác, vàng có khả năng giữ giá trị tốt hơn.

Chẳng hạn, vào tháng 4/2011, các nhà đầu tư lo ngại về sự suy giảm giá trị của tiền pháp định và đã đẩy giá vàng xuống mức thấp đáng kinh ngạc 1.500 USD/ ounce. Điều này cho thấy niềm tin nhỏ nhoi vào tiền tệ trên thị trường thế giới và sự ổn định kinh tế trong tương lai.

Tuy nhiên, câu chuyện vàng có chống được lạm phát hay không vẫn gây tranh cãi rất nhiều. Theo trưởng bộ phận nghiên cứu của Boost ETP, Viktor Nossek, nhận thức này là sai lầm. Ông này cho rằng, vàng phát huy tác dụng tốt hơn ở môi trường giảm phát. "Trước kia chúng ta chưa từng nới lỏng tiền tệ như hiện nay và lịch sử của vàng với chức năng tài sản ngừa lạm phát chỉ dựa vào những gì xảy ra những năm 70 và 80 khi có hai cú sốc về giá do nguồn cung dầu giảm", ông Nossek nói năm 2013.

"Cú sốc thứ nhất xảy ra vào thời điểm cấm vận dầu mỏ OPEC những năm 70 và cú sốc thứ 2 là cách mạng ở Iran năm 1980. Hai cú sốc này khiến giá vàng tăng mạnh do giá dầu tăng được phản ánh vào CPI. Đó là khi chúng ta mới xóa bỏ bản vị vàng, chính sách của ngân hàng trung ương chuyển theo một hướng mới và tiền tệ được thả nổi thay vì được ấn định như trước đó. Cũng kể từ đó không có giai đoạn nào lạm phát quá cao", ông Nossek dẫn chứng thêm.

Thứ ba, giá vàng ảnh hưởng đến các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu vàng. Giá trị tiền tệ của một quốc gia gắn chặt với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Giá vàng tăng có thể tạo ra thặng dư thương mại hoặc giúp bù đắp thâm hụt thương mại. Ngược lại, các nước nhập khẩu vàng lớn chắc chắn sẽ có đồng tiền yếu hơn khi giá vàng tăng. Ví dụ, các quốc gia chuyên sản xuất các sản phẩm làm bằng vàng, nhưng thiếu nguồn dự trữ của mình, sẽ là những nước nhập khẩu vàng lớn. Do đó, giá vàng ở đây dễ bị tăng.

(KT biên soạn tổng hợp)